Ðộng
kinh là một rối
loạn thần kinh thường gặp. Thống kê của Tổ chức y tế thế giới (WHO), tỷ lệ động
kinh trên thế giới hiện nay dao động từ 0,5 - 1% dân số, 50 trường hợp trên
100.000 dân. Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, tỷ lệ mới mắc của động
kinh trong một năm là 100/100.000 người.
Mặc dù
không có chế độ dinh dưỡng chuyên biệt để làm giảm các cơn động kinh, song bệnh
nhân vẫn cần tuân thủ một chế độ ăn cân bằng các chất dinh dưỡng mà bác sĩ
chuyên khoa đã tính toán.
Chế độ ăn ở người bị động kinh
Người bị
động kinh cần có chế độ dinh dưỡng đầy đủ để duy trì tình trạng sức khỏe chung,
như folat (có trong trái cây và rau tươi hay hơi chín), calcium và magnesium
(nhiều nhất trong các sản phẩm sữa), vitamin B12 (có trong sữa và thịt),
vitamin K (rau xanh và các hạt ngũ cốc), vitamin D (trong dầu cá, thịt, sữa và
được sản xuất trong cơ thể nhờ tiếp xúc ánh nắng mặt trời
Nếu người
bệnh động kinh có các bệnh lý khác như tiểu đường thì cần tuân thủ chế độ ăn
theo bệnh lý đó.
Thực phẩm giàu can xi tốt cho người bị động kinh
Ảnh hưởng của thuốc chống động kinh lên các chất dinh dưỡng
Một số
thuốc chống động kinh có thể làm giảm một số chất dinh dưỡng trong cơ thể
như vitamin D, vitamin K, calcium, magnesium, manganese, sodium và folat. Tuy
nhiên, ở đa số người bệnh dùng thuốc chống động kinh thì vấn đề này thường nhẹ
và không nguy hiểm. Một số người bệnh dễ bị thiếu các vitamin như: người dùng
thuốc chống động kinh liều cao, dùng nhiều thuốc chống động kinh, người già,
trẻ đang phát triển, phụ nữ có thai, người nghiện rượu và những người ăn uống
kém. Do vậy, đối với những đối tượng này cần cung cấp đủ các vitamin và khoáng
chất cần thiết để ngăn ngừa tình trạng thiếu hụt.
Làm thế nào để tránh thiếu hụt các chất dinh dưỡng?
Cần có
chế độ dinh dưỡng thích hợp. Ăn đủ và đúng bữa. Cần được khám và kiểm tra bởi
các bác sĩ. Tránh tự dùng các thuốc đa sinh tố mà không có lời khuyên của bác
sĩ vì trong một số trường hợp nếu dùng quá nhiều các sinh tố có thể gây tác
dụng ngược lại.
Rượu và thuốc lá
- Người
bệnh động kinh cần kiêng rượu vì rượu dễ làm xuất hiện các cơn động
kinh hơn, đặc biệt đối với một số hội chứng động kinh và ngăn cản tác
dụng của các thuốc chống động kinh.
Rượu còn có thể làm nặng hơn các tác dụng phụ do thuốc chống động kinh. Rượu có
thể gây ra các cơn động kinh ở những người uống rượu nhiều, kéo dài nhưng ngưng
uống rượu đột ngột. Ngoài ra, rượu còn làm giảm trí nhớ do vậy người bệnh dễ
quên việc uống thuốc chống động kinh.
- Thuốc
lá không ảnh hưởng đến các cơn động kinh, tuy nhiên khi người bị động kinh hút
thuốc mà có cơn động kinh có thể gây cháy nhà do thuốc lá.
Chế độ ăn sinh ceton
Một chế
độ dinh dưỡng đặc biệt được dùng để điều trị động kinh gọi là chế độ ăn sinh
ceton (ketogenic diet).
Bình
thường cơ thể dùng năng lượng qua việc tiêu thụ glucose (chất đường, bột) từ
thức ăn. Tuy nhiên, cơ thể không dự trữ được một lượng lớn glucose mà chỉ có
thể dự trữ để dùng trong 24 giờ. Khi một người không ăn trong 24 giờ (thời điểm
bắt đầu chế độ ăn), thường được thực hiện trong bệnh viện, họ sẽ tiêu thụ hết
năng lượng từ glucose dự trữ. Nếu glucose không được cung cấp thêm thì cơ thể
sẽ bắt đầu tiêu thụ lượng mỡ dự trữ và đó là quá trình của chế độ ăn sinh
ceton. Chế độ ăn này lấy 80% năng lượng từ mỡ, năng lượng còn lại từ protein và
carbohydrat.
Vì vậy để
không ảnh hưởng đến kết quả điều trị, bệnh nhân cần tuân thủ nạp đủ lượng thức
ăn và nước uống mà bác sĩ chuyên khoa đã tính toán cẩn thận cho mỗi
người. Chế độ ăn như vậy có thể làm giảm các cơn động kinh ở một số bệnh nhân
mặc dù cơ chế tác dụng của nó vẫn chưa được hiểu rõ. Chế độ ăn này thường được
chỉ định dùng cho trẻ bị động kinh dưới 16 tuổi và không đáp ứng với các thuốc
chống động kinh. Các tác dụng phụ có thể gặp là mất nước, táo bón, sỏi thận,
sỏi mật, viêm tụy, loãng xương, rối loạn kinh nguyệt.
Dinh dưỡng ở phụ nữ mang thai bị động kinh
Phụ nữ
mang thai bình thường cần bổ sung thêm nhiều vitamin và các chất khác vì nhu
cầu dinh dưỡng cho “hai người”. Đối với người bị động kinh thì
nhu cầu này cao hơn bình thường vì một số thuốc chống động kinh làm giảm một số chất quan trọng như
folat, vitamin K. Khi folat giảm thì khả năng bào thai bị dị tật sẽ gia tăng,
do vậy phải cung cấp đủ folat trước khi mang thai và trong suốt quá trình mang
thai. Liều folat thông thường là từ 0,4 - 4 mg (folat làm giảm nguy cơ khiếm
khuyết thai nhi từ 60 - 70%). Khi vitamin K giảm có khả năng gây xuất huyết ở
trẻ sơ sinh. Để tránh hiện tượng thiếu vitamin K, người mẹ cần dùng 10 mg
vitamin K mỗi ngày trong tháng cuối thai kỳ.
Hoàng Nam
Để được tư vấn về bệnh động kinh hãy gọi 0962.546.541